- Các loại bản đồ đã lập từ năm 1980 trở về
trước: Các loại bản đồ này thường được lập đơn giản theo dạng sơ đồ thửa đất,
việc trình bày và thể hiện bản đồ chưa được thống nhất, mỗi địa phương khác
nhau thì có sự thể hiện khác nhau theo từng thời điểm lập bản đồ, tuy nhiên vẫn
thể hiện về ngày, tháng, năm lập; đơn vị đo vẽ; đơn vị nghiệm thu; cơ quan thẩm
duyệt trên bản đồ hoặc trong các tài liệu hồ sơ kèm theo.
- Các loại bản đồ đã lập từ sau năm 1980 đến
trước năm 1993: Khi Tổng cục Quản lý ruộng đất được thành lập (Nghị định số
404-CP ngày 09/11/1979 về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức Quản lý ruộng đất),
trên cơ sở nhu cầu phát triển của công tác đo đạc bản đồ địa chính phục vụ quản
lý đất đai, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 299/TTg ngày 10/11/1980
về Công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất trong cả nước. Bản đồ được lập
ra dựa trên Chỉ thị số 299/TTg ngày 10/11/1980 thường gọi tắt là bản đồ giải thửa.
Việc trình bày và
thể hiện bản đồ giai đoạn này cơ bản đã có sự thống nhất theo quy định chung của
Tổng cục Quản lý ruộng đất. Giai đoạn này, các văn bản của Trung ương đã có quy
định cụ thể về thể hiện ngày, tháng, năm lập; đơn vị đo vẽ; đơn vị nghiệm thu;
cơ quan thẩm duyệt trên bản đồ.
- Các loại bản đồ đã lập từ sau 1993 đến
nay: Các loại bản đồ này được lập thống nhất theo quy định thành lập bản đồ
địa chính tỷ lệ 1:1000, 1:2000, 1:5000 của Tổng cục Quản lý ruộng đất. Trong
đó, đã có quy định cụ thể về thể hiện ngày, tháng, năm lập; đơn vị đo vẽ; đơn vị
nghiệm thu; cơ quan thẩm duyệt tại sơ đồ khung bản đồ địa chính.
Bản đồ địa chính
là một phần quan trọng của hồ sơ địa chính, cùng với sổ địa chính, sổ mục kê đất,
sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sổ theo dõi biến động đất đai và các
giấy tờ khác.
Các loại bản đồ địa
chính này được sử dụng để:
Xác định ranh giới,
diện tích thửa đất.
Ghi nhận thông
tin về hiện trạng sử dụng đất.
Làm cơ sở cho việc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất (Sổ đỏ, Sổ hồng).
Phục vụ công tác
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Hỗ trợ quản lý
nhà nước về đất đai.
Chính vì vậy, dù
bản đồ địa chính được lập trong giai đoạn nào thì đều có quy định về kiểm tra,
nghiệm thu sản phẩm hoàn thành và được thể hiện trên các tài liệu kiểm tra,
nghiệm thu, phê duyệt chất lượng sản phẩm khác nhau, riêng kết quả của việc này
có được thể hiện trên mảnh bản đồ hay không, mức độ đầy đủ như thế nào thì tùy
thuộc vào từng giai đoạn.
Đối với thông tin
về thửa đất và người sử dụng đất ngoài phần thể hiện trên bản đồ thì còn có phần
thể hiện trên sổ sách thống kê kèm theo (như: Sổ Mục kê, thống kê ruộng đất, Sổ
Đăng ký ruộng đất …) và các hồ sơ quản lý đất đai khác.
Chính vì vậy, dù
bản đồ địa chính được lập trong giai đoạn nào thì đều có quy định về kiểm tra,
nghiệm thu sản phẩm hoàn thành và được thể hiện trên các tài liệu kiểm tra,
nghiệm thu, phê duyệt chất lượng sản phẩm khác nhau, riêng kết quả của việc này
có được thể hiện trên mảnh bản đồ hay không, mức độ đầy đủ như thế nào thì tùy
thuộc vào từng giai đoạn.
Đối với thông tin
về thửa đất và người sử dụng đất ngoài phần thể hiện trên bản đồ thì còn có phần
thể hiện trên sổ sách thống kê kèm theo (như: Sổ Mục kê, thống kê ruộng đất, Sổ
Đăng ký ruộng đất …) và các hồ sơ quản lý đất đai khác.
Bản đồ địa chính
các thời kỳ đều được sử dụng trong việc quản lý đất đai, trong đó bao gồm cả việc
làm căn cứ để giải quyết về tranh chấp đất đai.
Tuy nhiên, tại từng
giai đoạn lập bản đồ khác nhau mà chất lượng bản đồ cũng khác nhau, từ đó giá
trị sử dụng để quyết định vấn đề đất đai cụ thể cũng khác nhau, nên ngoài việc
sử dụng bản đồ thì còn phải căn cứ vào sổ sách thống kê kèm theo (như: Sổ Mục
kê, thống kê ruộng đất, Sổ Đăng ký ruộng đất …) và các hồ sơ quản lý đất đai
khác và quy định của pháp luật hiện hành để làm căn cứ giải quyết từng vấn đề cụ
thể.