Thừa
kế trong trường hợp có nhiều vợ và Xác định con nuôi.
1. Thừa
kế trong trường hợp có nhiều vợ.
1.1. Công nhận
nhiều vợ.
Căn cứ theo điểm
a Mục 4 Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp lệnh thừa kế
30/08/1990
4. VỀ NHỮNG NGƯỜI
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
a) Trong trường hợp
một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh
mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam
và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ
mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất
cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại,
người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.
1.2. Công nhận 1
vợ duy nhất.
Án lệ 41/2021/AL
về chấm dứt hôn nhân thực tế.
- Tình huống án lệ:
Nam và nữ chung sống
với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn nhưng sau đó họ không còn chung sống
với nhau và trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực, có người
chung sống với nhau như vợ chồng với người khác. Quan hệ hôn nhân đầu tiên và
quan hệ hôn nhân thứ hai đều là hôn nhân thực tế.
- Giải pháp pháp
lý:
Trường hợp này,
phải xác định hôn nhân thực tế đầu tiên đã chấm dứt.
2.
Xác định con nuôi.
- Xác định luật
áp dụng để giải quyết quan hệ hôn nhân:
“Luật hôn nhân
gia đình Điều 131. Điều khoản chuyển tiếp
1. Quan hệ hôn
nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp
luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết.”
- Trước ngày
03/01/1987 (ngày Luật HN&GĐ 1986 có hiệu lực):
Theo đó, điểm a Mục
6 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng Luật HN&GĐ năm 1986 quy định: “Những điều kiện
về nuôi con nuôi đã được quy định trong các Điều 34, 35, 36 và 37 nhưng trước
khi Luật này được ban hành thì những điều kiện đó chưa được quy định đầy đủ. Vì
vậy, những việc nuôi con nuôi trước khi ban hành Luật mới vẫn có giá trị pháp
lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục đích xã hội của việc nuôi
con nuôi (như: nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc để dùng con nuôi vào
những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được
ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha
mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những
hậu quả pháp lý do luật định”.
=>> Như vậy,
việc nuôi con nuôi xác lập trước ngày 03/01/1987 thì không cần đăng ký vẫn được
pháp luật công nhận.
Có thể tham khảo
thêm Bản án dân sự 44 ngày 21/9/2018 TAND tỉnh Nam Định.
http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta162908t1cvn/chi-tiet-ban-an
- Từ ngày
03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật HN&GĐ 2000 có hiệu lực thi
hành):
Theo Điều 37 Luật
HN&GĐ 1986 thì: “Việc nhận nuôi con nuôi do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch”.
Như vậy, về
nguyên tắc, việc nuôi con nuôi trong thời gian này phải được đăng ký và ghi vào
sổ hộ tịch mới hợp lệ.
Tuy nhiên cần lưu
ý đối với quan hệ nuôi con nuôi đối với công dân thuộc các dân tộc thiểu số đang
sinh sống ở vùng sâu, vùng xa thì căn cứ Điều 17 Nghị định 32/2002/NĐ-CP thì:
“Những trường hợp nhận nuôi con nuôi được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm
2001, ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực pháp luật, mà chưa
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng có đủ điều kiện theo quy định
của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi đã được xác lập, các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của mình, thì được pháp luật công nhận và được Nhà nước khuyến khích
và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký nuôi con nuôi. Nếu có tranh chấp
liên quan đến việc xác định quan hệ giữa cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi
con nuôi và người được nhận làm con nuôi thì do Toà án giải quyết”.
- Từ ngày
01/01/2001 trở về sau:
Theo Điều 72 Luật
HN&GĐ 2000 thì: “Việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ tịch”. Tuy nhiên, cần lưu ý quy định tại khoản
1, 2 Điều 50 Luật Nuôi con nuôi 2010 và hướng dẫn tại Điều 23,24,25, 50 Nghị định
19/2011/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 24/2019/NĐ-CP).
Việc nuôi con
nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký
trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện sau thì được đăng ký
kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban
nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi:
a) Các bên có đủ
điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh
quan hệ nuôi con nuôi;
b) Đến thời điểm
Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn
sống;
c) Giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và
con.
Sau khi được đăng
ký, việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ
nuôi con nuôi.
Do đó, khi giải
quyết các vụ án (HNGĐ, thừa kế) có phát sinh việc nuôi con nuôi. Cần căn cứ vào
các quy định nêu trên để xác định việc nuôi con nuôi có hợp pháp (có đăng ký hoặc
nuôi con nuôi thực tế không cần đăng ký).
Việc xác định con
nuôi thực tế có thể dựa trên: ý kiến của những người dân sống lâu năm tại địa
phương về thực chất mối quan hệ cha mẹ và con (có nuôi dưỡng, chăm sóc, yêu
thương nhau…), ý chí của người nhận nuôi và con nuôi; dựa trên chính sự thừa nhận
của các hàng thừa kế; các giấy tờ nhân thân: sổ hộ khẩu, giấy chứng minh nhân
dân, sơ yếu lý lịch có xác nhận của chính quyền địa phương...