Căn cứ pháp lý: Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP
a) Nội dung và
Hình thức HĐ đúng quy định.
Trường hợp nội
dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm
giao kết hợp đồng.
a.1) Nếu bên
nhận chuyển nhượng đã nhận đất thì Toà án công nhận hợp đồng, buộc các bên phải
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất.
Nếu bên nhận đất chưa trả đủ tiền cho bên có đất thì buộc họ phải trả cho bên
chuyển nhượng số tiền còn thiếu theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời
điểm xét xử sơ thẩm.
a.2) Nếu bên
nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền nhưng chưa nhận đất và bên chuyển nhượng vẫn
quản lý, sử dụng, chưa xây dựng công trình kiến trúc trên đất đó, thì các bên
phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác.
Trong trường hợp
bên chuyển nhượng đã làm nhà ở hoặc không có điều kiện để giao đất cho bên nhận
chuyển nhượng, thì tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể hủy hợp đồng, buộc bên
chuyển nhượng phải thanh toán cho bên nhận chuyển nhượng khoản tiền đã nhận
theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
b) Nội dung
phù hợp và Hình thức không phù hợp với quy định.
Trường hợp nội
dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nhưng hình thức của hợp đồng
không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.
b.1) Nếu các
bên chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
và hủy hợp đồng.
b.2) Nếu bên
nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên chuyển nhượng đã giao
toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất đó.
Trong trường hợp
bên nhận chuyển nhượng mới trả một phần tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng
mới giao một phần diện tích đất, thì có thể công nhận phần hợp đồng đó căn cứ
vào diện tích đất đã nhận.
Nếu công nhận
phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị
lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh
toán cho bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng
đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng
theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ
thẩm. Đồng thời buộc các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất đối với
diện tích đất mà bên nhận chuyển nhượng đã nhận. Trong trường hợp bên nhận chuyển
nhượng đã giao số tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà Toà án chỉ công
nhận phần hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận thì bên chuyển nhượng
phải thanh toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã giao tính
theo giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
c) Chưa bàn
giao đất nhưng bị thu hồi.
Đối với trường hợp được hướng dẫn tại điểm a
và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này mà bên chuyển nhượng đã nhận tiền của bên nhận
chuyển nhượng nhưng chưa giao đất cho họ mà đất đó đã bị Nhà nước thu hồi để sử
dụng vào mục đích công cộng và có đền bù cho bên chuyển nhượng đất thì Toà án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu và hủy hợp đồng. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.
d) HĐ chuyển
nhượng có điều kiện.
Nếu hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã
được thực hiện, thì hợp đồng đó được giải quyết theo hướng dẫn tại điểm a và điểm
b tiểu mục 2.1 mục 2 này.
đ) HĐ vô hiệu
do vi phạm pháp luật
Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà toàn bộ hoặc một phần nội dung của hợp đồng vi phạm
pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và việc
giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo quy định tại
Điều 137, Điều 146 của Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục
2 này.