Căn cứ theo Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP
Điều 2. Xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa
Trọng tài, Tòa án theo quy định Luật TTTM
1. Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
quy định tại Điều 2 Luật TTTM nếu các bên có thoả thuận trọng tài quy
định tại Điều 5 và Điều 16 Luật TTTM, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.
2. Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật TTTM thì Tòa án yêu cầu
một hoặc các bên cho biết tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay
không. Tòa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện để
xác định vụ tranh chấp đó có thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này
hay không. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:
a) Trường hợp tranh
chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc đã có bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án hoặc quyết định, phán quyết có hiệu lực pháp luật của
Trọng tài xác định vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài thì Tòa án xem
xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.
b) Trường hợp tranh chấp đã có
thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp hướng dẫn
tại khoản 3 Điều này thì Tòa án căn cứ quy định
tại điểm đ khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa
đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2011 (sau đây gọi tắt là BLTTDS) để trả lại đơn khởi kiện và các tài
liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện
vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc
trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều
này thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án,
trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi
kiện.
c) Trường hợp đã có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh
chấp và Hội đồng trọng tài đang giải quyết vụ tranh chấp thì dù Tòa án nhận
thấy tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, không có thỏa thuận trọng
tài hoặc tuy đã có thoả thuận trọng tài nhưng thuộc trường hợp hướng dẫn tại
khoản 3 Điều này mà người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì
Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp Tòa án đã thụ lý
thì ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trừ trường hợp Tòa án thụ lý
vụ tranh chấp trước khi có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp. Sau khi có
quyết định, phán quyết của Hội đồng trọng tài quy định tại các điều 43,
58, 59 và 61 Luật TTTM mà người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết,
thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
3. Tranh chấp có thỏa
thuận trọng tài nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác:
a) Có quyết định của
Tòa án huỷ phán quyết trọng tài, hủy quyết định của Hội đồng trọng tài về việc
công nhận sự thỏa thuận của các bên;
b) Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của
Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài quy định tại khoản 1 Điều 43 các
điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều 59 Luật TTTM;
c) Tranh chấp thuộc
trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 4 Nghị quyết này.
4. Trường hợp các bên
vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, vừa có thỏa thuận giải
quyết tranh chấp bằng Tòa án mà các bên không có thỏa thuận lại hoặc thỏa thuận
mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và không thuộc trường hợp
quy định tại khoản 3 Điều này mà phát sinh tranh chấp thì xử lý như sau:
a) Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải
quyết tranh chấp trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu
Trọng tài giải quyết tranh chấp khi Tòa án chưa thụ lý vụ án quy định tại điểm
b khoản 4 Điều này thì Tòa án căn cứ quy định tại Điều 6 Luật TTTM để
từ chối thụ lý, giải quyết. Trong trường hợp này, khi nhận được đơn khởi kiện
Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện, nếu đã thụ lý vụ án thì căn cứ quy định
tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các
tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện.
b) Trường hợp người
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, thì ngay sau khi nhận được đơn
khởi kiện, Tòa án phải xác định một trong các bên đã yêu cầu Trọng tài giải
quyết hay chưa.
Trong thời hạn 05
ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện mà Tòa án xác định người bị
kiện, người khởi kiện đã yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án trả
lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp người bị kiện, người khởi
kiện chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án xem xét thụ lý
giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án mà phát hiện tranh
chấp đã có yêu cầu Trọng tài giải quyết trước thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì
Tòa án căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết
định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả
lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện.
Điều 3. Thoả thuận trọng tài vô hiệu quy định
tại Điều 6 và Điều 18 Luật TTTM
Thoả thuận trọng tài vô hiệu là thỏa thuận trọng tài
thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 18 Luật TTTM. Khi xem xét
thoả thuận trọng tài vô hiệu quy định tại Điều 18 Luật TTTM cần lưu ý
một số trường hợp như sau:
1. “Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh
vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài” quy định tại khoản 1 Điều 18
Luật TTTM là trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết
tranh chấp không thuộc lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật TTTM.
2. “Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật” quy định tại khoản 2 Điều 18
Luật TTTM là người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người
đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là
người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền.
Về nguyên tắc thỏa
thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài
đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác
lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố
tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận
hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.
3. “Người xác lập thỏa thuận trọng
tài không có năng lực hành vi dân sự” quy định
tại khoản 3 Điều 18 Luật TTTM là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong
trường hợp này thì Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác lập
thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài
liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền
hoặc quyết định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân
sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
4. “Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù
hợp với quy định tại Điều 16 Luật TTTM” quy định tại khoản 4 Điều
18 Luật TTTM là trường hợp thỏa thuận trọng tài không được xác lập bằng
một trong các hình thức quy định tại Điều 16 Luật TTTM và hướng dẫn
tại Điều 7 Nghị quyết này.
5. “Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài” quy định tại khoản 5
Điều 18 Luật TTTM là trường hợp một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng
ép theo quy định tại Điều 4, Điều 132 của Bộ luật dân sự.
6. “Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp
luật” quy định tại khoản 6 Điều 18 Luật TTTM là thỏa thuận thuộc
trường hợp quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự.
Điều 4. Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được
quy định tại Điều 6 Luật TTTM
“Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”
quy định tại Điều 6 Luật TTTM là thỏa thuận trọng tài thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
1. Các bên đã có thỏa
thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm
trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức
trọng tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm
trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.
2. Các bên đã có thỏa
thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời
điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà
Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc Trung tâm trọng
tài, Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa thuận và các bên
không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
3. Các bên đã có thỏa
thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời
điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc Trung
tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không thỏa thuận
được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
4. Các bên có thỏa
thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa thuận áp
dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố tụng trọng tài
của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của Trung tâm trọng tài do các
bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng Quy tắc tố tụng
của Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn
Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
5. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng
có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung
về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều
17 Luật TTTM nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng
không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.
Điều 5. Xác định Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt
động trọng tài quy định tại Điều 7 Luật TTTM
1. Các bên có quyền
thỏa thuận lựa chọn một trong các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương của Việt Nam để giải quyết vụ việc liên quan đến hoạt động trọng tài
tại Việt Nam. Việc thỏa thuận lựa chọn Tòa án có thẩm quyền phải được lập thành
văn bản, trong đó nêu rõ loại việc yêu cầu Tòa án giải quyết, tên Tòa án mà các
bên lựa chọn.
Trường hợp thỏa thuận của các bên không đúng quy định
tại khoản 3 Điều 7 Luật TTTM thì thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt
động trọng tài được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật
TTTM về thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án và quy định tại khoản 3
Điều 7 Luật TTTM về thẩm quyền theo cấp của Tòa án.
Ví dụ: các bên thỏa thuận lựa chọn Tòa án nhân dân
huyện X để giải quyết yêu cầu triệu tập người làm chứng thì thỏa thuận này là
trái với quy định tại khoản 3 Điều 7 Luật TTTM. Tòa án không chấp nhận
thỏa thuận lựa chọn này của các bên và thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động
trọng tài được xác định theo quy định tại điểm e khoản 2 và khoản 3 Điều 7
Luật TTTM.
2. Các bên có thể
thỏa thuận lựa chọn Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài trước hoặc
sau khi có tranh chấp. Việc thỏa thuận lựa chọn Tòa án đối với hoạt động trọng
tài phải đảm bảo nguyên tắc chỉ có một Tòa án có thẩm quyền đối với một hoạt
động trọng tài hoặc tất cả hoạt động trọng tài.
3. Xác định Tòa án có
thẩm quyền đối với yêu cầu chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng
tài vụ việc.
a) Trường hợp yêu cầu
chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc mà có nhiều bị
đơn thì nguyên đơn có quyền lựa chọn yêu cầu một trong các Tòa án nơi cư trú
hoặc nơi có trụ sở của một trong các bị đơn đó. Trường hợp có một hoặc các bị
đơn cư trú, hoặc có trụ sở ở nước ngoài thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án
nơi cư trú, nơi có trụ sở của nguyên đơn.
b) Khi nhận đơn yêu cầu chỉ định Trọng tài viên để
thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc, Tòa án phải giải thích cho người nộp đơn
yêu cầu biết là chỉ có một Tòa án trong các Tòa án được quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 7 Luật TTTM có thẩm quyền giải quyết để họ lựa chọn. Tòa án
do họ lựa chọn phải yêu cầu họ cam kết trong đơn yêu cầu về
việc không nộp đơn yêu cầu tại các Tòa án khác.
c) Trong trường hợp
nguyên đơn nộp đơn yêu cầu tại nhiều Tòa án khác nhau và các Tòa án đều nhận
được đơn yêu cầu thì Tòa án đã thụ lý đầu tiên theo thời gian có thẩm quyền
giải quyết. Các Tòa án nhận được đơn yêu cầu sau thì xử lý đơn như sau:
c1) Nếu chưa thụ lý thì căn cứ quy định tại điểm
đ khoản 1 Điều 168 và Điều 311 của BLTTDS để trả lại đơn yêu cầu cùng tài
liệu, chứng cứ và tiền tạm ứng lệ phí cho người đã nộp.
c2) Nếu đã thụ lý thì căn cứ quy
định tại điểm đ khoản 1 Điều 168, điểm i
khoản 1 Điều 192 và Điều 311 của BLTTDS để ra quyết
định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, xoá tên vụ việc đó trong sổ thụ lý, trả lại
đơn yêu cầu cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người nộp đơn. Tiền tạm ứng lệ
phí được Tòa án trả lại cho người đã nộp.
c3) Trường hợp nhiều Tòa án đều đã ra quyết định chỉ
định Trọng tài viên, thì lấy quyết định chỉ định Trọng tài viên của Tòa án do
nguyên đơn lựa chọn và thông báo cho bị đơn đầu tiên theo thời gian. Trong
trường hợp này, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh án phí, lệ
phí Tòa án thì nguyên đơn vẫn phải chịu lệ phí yêu cầu Tòa án chỉ định
Trọng tài viên theo Quyết định chỉ định trọng tài viên của Tòa án tại tất cả
các Tòa án mà nguyên đơn có yêu cầu.
4. Tòa án có thẩm quyền đối với yêu cầu thay đổi Trọng
tài viên, giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài, hủy phán
quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc quy định tại
các điểm b, c và g khoản 2 Điều 7 Luật TTTM được xác định như sau:
a) “Nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp”
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 Luật TTTM được xác định theo quy
định tại khoản 8 Điều 3 Luật TTTM. Trường hợp các bên không thỏa thuận lựa
chọn được địa điểm giải quyết tranh chấp và Hội đồng trọng tài không xác định
hoặc không xác định rõ địa điểm giải quyết tranh chấp thì người yêu cầu phải
nộp các tài liệu, chứng cứ chứng minh. Trường hợp họ không chứng minh được thì
Tòa án hướng dẫn họ yêu cầu Hội đồng trọng tài xác định. Tòa án căn cứ vào kết
quả xác định địa điểm giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài để xem xét,
quyết định việc thụ lý theo quy định của pháp luật.
b) “Nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định” và “Nơi
Hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng tài” quy định tại điểm c
và điểm g khoản 2 Điều 7 Luật TTTM được xác định theo quyết định, phán
quyết của Hội đồng trọng tài. Trường hợp quyết định, phán quyết của Hội đồng
trọng tài không xác định hoặc không xác định rõ địa điểm nơi Hội đồng trọng tài
ra quyết định, nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng tài thì người
yêu cầu phải nộp các tài liệu, chứng cứ chứng minh. Trường hợp họ không chứng
minh được thì Tòa án hướng dẫn họ yêu cầu Hội đồng trọng tài xác định. Tòa án
căn cứ vào kết quả xác định của Hội đồng trọng tài để xem xét, quyết định việc
thụ lý theo quy định của pháp luật.
c) Trường hợp nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định,
nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng tài quy định tại điểm c
và điểm g khoản 2 Điều 7 Luật TTTM được tiến hành ở nước ngoài thì Tòa án
có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của bị đơn tại Việt Nam.
Trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở ở nước ngoài thì Tòa án có thẩm
quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn.
5. Xác định thẩm
quyền của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
a) Trọng tài nước ngoài tiến hành việc giải quyết
tranh chấp và có yêu cầu Tòa án Việt Nam hỗ trợ hoạt động thì Tòa án Việt Nam
có thẩm quyền đối với hoạt động của Trọng tài nước ngoài theo quy định tại
các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 2 Điều 7 Luật TTTM.
b) Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền đối với yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc của Trọng tài
nước ngoài quy định tại điểm g khoản 2 Điều 7 Luật TTTM. Phán quyết của
Trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định
của BLTTDS về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của
Trọng tài nước ngoài.
Điều 6. Mất quyền phản đối quy định tại Điều 13
Luật TTTM
1. Trường hợp một bên
phát hiện có vi phạm quy định Luật TTTM hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn
tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối với Hội đồng trọng tài,
Trung tâm trọng tài những vi phạm đó trong thời hạn do Luật TTTM quy định thì
mất quyền phản đối tại Trọng tài, hoặc tại Tòa án đối với
những vi phạm đã biết đó. Trường hợp Luật TTTM không quy định thời hạn thì thời
hạn được xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc quy tắc tố tụng trọng tài.
Trường hợp các bên không thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng trọng tài không quy
định thì việc phản đối phải được thực hiện trước thời điểm Hội đồng trọng tài
tuyên phán quyết.
2. Trước khi xem xét
yêu cầu của một hoặc các bên về việc có vi phạm quy định Luật TTTM hoặc của
thỏa thuận trọng tài, Tòa án phải kiểm tra các tài liệu, chứng cứ, quy tắc tố
tụng trọng tài để xác định đối với yêu cầu đó, một hoặc các bên có mất quyền
phản đối hay không mất quyền phản đối.
Trường hợp Tòa án xác định vi phạm đã mất quyền phản
đối quy định tại Điều 13 Luật TTTM và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này
thì bên đã mất quyền phản đối không được quyền khiếu nại quyết định của Hội
đồng trọng tài, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đối với những vi phạm đã mất
quyền phản đối đó. Tòa án không được căn cứ vào các vi phạm mà một hoặc các bên
đã mất quyền phản đối để quyết định chấp nhận yêu cầu của một hoặc các bên.
3. Khi giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài,
Tòa án có trách nhiệm xem xét theo quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm b
khoản 3 Điều 68 Luật TTTM. Trường hợp xét thấy có đủ căn cứ để chấp nhận hoặc
không chấp nhận yêu cầu thì Tòa án có quyền quyết định ngay cả khi một hoặc các
bên đã mất quyền phản đối.
Điều 7. Về thỏa thuận trọng tài quy định tại Điều
16 Luật TTTM
1. Trường hợp có
nhiều thỏa thuận trọng tài được xác lập đối với cùng một nội dung tranh chấp
thì thỏa thuận trọng tài được xác lập hợp pháp sau cùng theo
thời gian có giá trị áp dụng.
2. Trường hợp thỏa
thuận trọng tài có nội dung không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải thích.
3. Khi có sự chuyển
giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, hợp đồng mà trong giao dịch, hợp
đồng đó các bên có xác lập thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì thỏa thuận trọng
tài trong giao dịch, hợp đồng vẫn có hiệu lực đối với bên được chuyển giao và
bên nhận chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
4. Việc gộp nhiều
quan hệ pháp luật tranh chấp để giải quyết trong cùng một vụ kiện được thực
hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Các bên thỏa thuận
đồng ý gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải quyết trong cùng một vụ
kiện;
b) Quy tắc tố tụng
trọng tài cho phép gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải quyết trong
cùng một vụ kiện.