Giải thích một số thuật ngữ.
Cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh: Căn cứ theo khoản 1 Điều
6 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP (hết hiệu lực
từ 01/07/2016)
1. Cá nhân, tổ chức
có đăng ký kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có thẩm quyền
đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật, cụ thể như sau:
a) Cá nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác (theo Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Thương mại và
các văn bản quy phạm pháp luật khác của về đăng ký kinh doanh);
b)
Doanh nghiệp (theo Luật Doanh nghiệp và các văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp);
c) Hợp tác xã, liên
hiệp hợp tác xã (theo Luật Hợp tác xã và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn
thi hành Luật Hợp tác xã);
d) Cá nhân, tổ chức
khác theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh.
Mục đích lợi nhuận: Căn cứ theo khoản 2 Điều
6 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP (hết hiệu lực
từ 01/07/2016)
2. Mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh,
thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không
phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh,
thương mại đó.
Hoạt động kinh doanh thương mại: Căn cứ theo khoản 3 Điều
6 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP (hết hiệu lực
từ 01/07/2016)
3. Hoạt động kinh doanh, thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác quy định
tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại. Hoạt động kinh doanh, thương mại không
chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm
cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh, thương mại.
Ví dụ: Công ty trách
nhiệm hữu hạn A được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực may
mặc. Hoạt động của Công ty A không chỉ giới hạn ở việc may sản phẩm là hàng dệt
may để phục vụ thị trường mà còn bao gồm cả hành vi mua nguyên vật liệu về để
sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, thuê xe ô tô để đưa công
nhân đi làm, đi nghỉ hàng năm theo chế độ hoặc mua một số ti vi để cho công
nhân giải trí sau giờ làm việc,...
Xác định vụ việc dân sự hay kinh doanh thương mại.
a) Tranh chấp HĐ chuyển
nhượng vốn góp.
Theo Công văn 212/TANDTC-Pc 2019
1. Tại công ty TNHH hai thành viên, thành viên A mua
lại toàn bộ phần vốn góp của thành viên B, nhưng chưa thanh toán giá trị chuyển
nhượng phần vốn góp theo thỏa thuận. Sau đó A làm thủ tục thay đổi giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh chuyển đổi từ công ty TNHH hai thành viên thành công ty
TNHH một thành viên. Việc B khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng trả lại phần vốn góp
đã chuyển nhượng, trả lại tư cách thành viên công ty và hủy Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi là tranh chấp dân sự hay tranh chấp kinh
doanh thương mại? Tòa án nhân dân cấp nào có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục
sơ thẩm? Khi giải quyết vụ án Tòa án có xem xét hủy Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp mới thay đổi đó không?
- Việc A mua lại toàn bộ phần vốn góp của thành viên B
đã xác lập hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa A và B. B khởi kiện yêu cầu
hủy hợp đồng trả lại phần vốn góp đã chuyển nhượng, là tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa A và B. Trường hợp này lí do hủy bỏ
Hợp đồng do A chậm thực hiện nghĩa vụ (Điều 424 của Bộ luật Dân sự 2015).
Tại thời điểm B khởi kiện thì B không còn là thành
viên của công ty (do A đã chuyển đổi từ Công ty TNHH hai thành viên sang Công
ty TNHH một thành viên). Tuy nhiên, đây là tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng
vốn góp giữa A và B và tại thời điểm giao kết hợp đồng thì A và B đều là thành
viên của Công ty TNHH hai thành viên. Vì vậy, Toà án căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 30 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 20151 để xác định tranh chấp này là tranh chấp kinh
doanh thương mại.
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
20152 thì Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp này theo thủ tục sơ thẩm.
- Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“1. Khi giải quyết vụ
việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật
của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2. Quyết định
cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về
một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một
số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định
này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.…”
Căn cứ khoản 2 Điều 34 của Bộ luật này, Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp là quyết định cá biệt; trường hợp vụ án kinh doanh
thương mại có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong
cùng một vụ án. Do vậy, trong vụ án tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng phần vốn góp, (theo đó Hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao
kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận
về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh
chấp; các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận (Điều 427 của Bộ luật Dân sự năm 2015); đồng thời có yêu
cầu hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi thì Tòa án có thẩm
quyền xem xét hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi nếu văn bản
đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án mà
Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
b) Tranh chấp HĐ bảo hiểm.
Theo Công văn 212/TANDTC-PC 2019
5. Tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua
bảo hiểm về việc đóng phí bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ đã ký
kết là tranh chấp dân sự hay tranh chấp kinh doanh, thương mại?
Pháp luật quy định
chủ thể ký Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm và người
mua bảo hiểm. Chủ thể ký là cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Trong trường hợp các bên ký Hợp đồng đều là thương
nhân (tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động thương mại) có đăng ký kinh doanh,
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, nếu phát sinh tranh chấp, đó là tranh chấp
kinh doanh, thương mại; Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015.
Trong trường hợp một bên ký Hợp đồng không phải là
thương nhân, Hợp đồng này là Hợp đồng dân sự và nếu phát sinh tranh chấp thì đó
là tranh chấp Hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy
định tại khoản 3 Điều 26
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Điều 6 của Luật Thương mại năm 2005 quy định thương nhân
như sau: “1. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh. 2. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các
ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp
luật không cấm.…”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Thương mại năm 2005 thì khái niệm
hoạt động thương mại được quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.”
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: “Tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận", trong trường hợp tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm
với người mua bảo hiểm về việc đóng phí bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm phi
nhân thọ thì: doanh nghiệp bảo hiểm đã có đăng ký kinh doanh, hai bên ký kết
hợp đồng đều vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, nếu người mua bảo hiểm có đăng ký
kinh doanh thì tranh chấp đó là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nếu người
mua bảo hiểm không có đăng ký kinh doanh thì tranh chấp được xác định là tranh
chấp về dân sự.
c) Tranh chấp về chuyển
giao công nghệ, chuyển quyền sở hữu trí tuệ.
Căn
cứ theo khoản 4 Điều 6 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP
4. Đối với các tranh chấp
quy định tại khoản 2 Điều 29 của BLTTDS thì không nhất thiết đòi hỏi
cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều
có mục đích lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại; nếu chỉ có một bên
có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận, thì tranh chấp
đó là tranh chấp về dân sự quy định tại khoản 4 Điều 25 của BLTTDS.
Như vậy: Nếu cả 2 bên đều có mục đích lợi nhuận
=>> Án kinh doanh, thương mại.
Nếu 01 bên có mục đích lợi nhuận =>> Án dân
sự.
d)
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Căn
cứ theo khoản 5 Điều 6 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP
5. Về các tranh chấp giữa công ty với các thành viên
của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức
tổ chức của công ty quy định tại khoản 3 Điều 29 của BLTTDS cần phân
biệt như sau:
a) Các tranh chấp
giữa công ty với các thành viên của công ty là các tranh chấp về phần vốn góp
của mỗi thành viên đối với công ty (thông thường phần vốn góp đó được tính bằng
tiền, nhưng cũng có thể bằng hiện vật hoặc bằng giá trị quyền sở hữu công
nghiệp); về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với mỗi công ty cổ
phần; về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp
vào công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng
với phần vốn góp vào công ty; về yêu cầu công ty đổi các khoản nợ hoặc thanh
toán các khoản nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà
công ty đã ký kết khi giải thể công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc
thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình
thức tổ chức của công ty.
b) Các tranh chấp
giữa các thành viên của công ty với nhau là các tranh chấp giữa các thành viên
của công ty về trị giá phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công
ty; về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công
ty hoặc về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty của thành viên công ty
đó cho người khác không phải là thành viên của công ty; về việc chuyển nhượng
cổ phiếu không ghi tên và cổ phiếu có ghi tên; về mệnh giá cổ phiếu, số cổ
phiếu phát hành và trái phiếu của công ty cổ phần hoặc về quyền sở hữu tài sản
tương ứng với số cổ phiếu của thành viên công ty; về quyền được chia lợi nhuận
hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ, thanh toán nợ của công ty; về việc thanh lý tài sản,
phân chia nợ giữa các thành viên của công ty trong trường hợp công ty bị giải
thể, về các vấn đề khác giữa các thành viên của công ty liên quan đến việc
thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình
thức tổ chức của công ty.
c) Khi thực hiện hướng dẫn tại điểm a và điểm
b khoản 5 Điều này, nếu giữa công ty với các thành viên của
công ty hoặc giữa các thành viên của công ty có tranh chấp với nhau, nhưng
tranh chấp đó không liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty mà chỉ
liên quan đến các quan hệ khác như quan hệ lao động, quan hệ dân sự (ví dụ:
Tranh chấp về bảo hiểm xã hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng lao
động, về hợp đồng vay, mượn tài sản,...) thì tranh chấp đó không phải là tranh
chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 3 Điều 29 của BLTTDS.
Tùy từng trường hợp cụ thể để xác định đó là tranh chấp về dân sự hay
tranh chấp về lao động.