Tranh chấp Giao dịch dân sự xác lập trước
ngày 01/07/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia với cơ quan, tổ
chức trong nước.
Nghị quyết
1037/2006/NQ-UBTVQH11
GIAO DỊCH DÂN SỰ
VỀ NHÀ Ở GIỮA CÁ NHÂN LÀ NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI VỚI CƠ QUAN, TỔ CHỨC
TRONG NƯỚC
Điều 26. Bên cho
thuê nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bên thuê nhà ở là cơ quan, tổ
chức trong nước
1. Trường hợp nhà
ở đang được cơ quan, tổ chức sử dụng làm trụ sở làm việc, cơ sở sản xuất, kinh
doanh, công trình công cộng thì giải quyết như sau:
a) Trường hợp thời
hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực hoặc
thời hạn thuê nhà ở không được xác định trong hợp đồng thì các bên thoả thuận để
giải quyết, nếu không thoả thuận được thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở nhưng
phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất mười hai tháng;
b) Trường hợp đến
ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng vẫn còn, nếu
các bên không có thoả thuận khác thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày
hết thời hạn thuê nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít
nhất sáu tháng.
2. Trường hợp nhà
ở đang được sử dụng để ở thì giải quyết như sau:
a) Trường hợp nhà
ở đang được sử dụng cho cá nhân ở mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết
trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực hoặc thời hạn thuê không xác định và bên
thuê là cơ quan, tổ chức chưa chấm dứt hoạt động thì bên cho thuê được lấy lại
nhà ở nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất mười
hai tháng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; trường hợp cá nhân trả lại nhà ở
đó không có chỗ ở và không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác thì cơ quan, tổ chức
có trách nhiệm xem xét, giải quyết chỗ ở cho họ theo chính sách về nhà ở của
Nhà nước.
Trường hợp bên
thuê là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động thì cá nhân đang ở nhà ở đó thỏa
thuận với bên cho thuê để giải quyết, nếu không thỏa thuận được thì bên cho
thuê được lấy lại nhà ở nhưng phải thông báo bằng văn bản cho cá nhân đang ở
nhà ở đó biết trước ít nhất mười hai tháng; trường hợp cá nhân trả lại nhà ở đó
không có chỗ ở và không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác thì cơ quan, tổ chức kế
thừa quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động có trách nhiệm
xem xét, giải quyết chỗ ở cho họ theo chính sách về nhà ở của Nhà nước, nếu
không có cơ quan, tổ chức này thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nơi có nhà ở đó có trách nhiệm xem xét, giải quyết;
b) Trường hợp nhà
ở đang được sử dụng cho cá nhân ở và cho đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà
thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng vẫn còn và bên thuê là cơ quan, tổ chức chưa
chấm dứt hoạt động thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày hợp đồng hết thời
hạn nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất sáu
tháng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; trường hợp cá nhân trả lại nhà ở đó
không có chỗ ở và không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác thì cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm xem xét, giải quyết chỗ ở cho họ theo chính sách về nhà ở của Nhà
nước.
Trường hợp bên
thuê là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động thì cá nhân đang ở nhà ở đó thỏa
thuận với bên cho thuê để giải quyết, nếu không thỏa thuận được thì bên cho
thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày hợp đồng hết thời hạn nhưng phải thông báo bằng
văn bản cho cá nhân đang ở nhà ở đó biết trước ít nhất mười hai tháng; trường hợp
cá nhân trả lại nhà ở đó không có chỗ ở và không có điều kiện tạo lập chỗ ở
khác thì cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đã chấm
dứt hoạt động có trách nhiệm xem xét, giải quyết chỗ ở cho họ theo chính sách về
nhà ở của Nhà nước, nếu không có cơ quan, tổ chức này thì Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương nơi có nhà ở đó có trách nhiệm xem xét, giải
quyết.
Điều 27. Cơ quan,
tổ chức trong nước mượn nhà ở của cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước
ngoài
1. Trường hợp nhà
ở do cơ quan, tổ chức mượn đang được sử dụng cho cá nhân ở thì việc lấy lại nhà
ở được thực hiện theo quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này.
2. Trường hợp nhà
ở do cơ quan, tổ chức mượn đang được sử dụng làm trụ sở làm việc, cơ sở sản xuất,
kinh doanh, công trình công cộng thì việc lấy lại nhà ở được thực hiện theo quy
định tại khoản 1 Điều 26 của Nghị quyết này.
Điều 28. Mua bán
nhà ở, đổi nhà ở, tặng cho nhà ở, thừa kế nhà ở giữa cá nhân là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài với cơ quan, tổ chức trong nước
1. Trường hợp bên
bán nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bên mua là cơ quan, tổ chức
trong nước thì giải quyết theo quy định tại Điều 14 của Nghị quyết này.
2. Trường hợp bên
đổi nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì giải quyết theo quy định tại
Điều 16 của Nghị quyết này.
3. Trường hợp bên
tặng cho nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì giải quyết theo quy định
tại Điều 19 của Nghị quyết này.
4. Trường hợp chủ
sở hữu nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài chết mà để lại thừa kế cho
cơ quan, tổ chức trong nước theo di chúc thì cơ quan, tổ chức đó được hưởng thừa
kế nhà ở.
Điều 29. Sửa chữa,
cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới
1. Trường hợp nhà
ở đang được sử dụng để ở thì việc giải quyết được thực hiện theo quy định tại
Điều 24 và Điều 25 của Nghị quyết này.
2. Trường hợp nhà
ở được sử dụng làm trụ sở làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình công
cộng thì việc giải quyết do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì
giải quyết theo quy định tại Điều 24 của Nghị quyết này; diện tích làm thêm,
nhà ở mới được công nhận quyền sở hữu cho bên cho thuê, bên cho mượn nhưng họ
phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần
diện tích làm thêm, nhà ở mới đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán.
Điều 30. Phương
thức trả lại nhà ở
1. Trường hợp cơ
quan, tổ chức phải trả lại nhà ở cho bên cho thuê, bên cho mượn thì tuỳ từng
trường hợp, các bên có thể thoả thuận việc trả lại nhà ở theo các phương thức
sau đây:
a) Trả nhà ở mà
cơ quan, tổ chức đang quản lý, sử dụng;
b) Trả bằng nhà ở
khác;
c) Trả bằng tiền;
d) Nhà nước giao
đất ở cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở mà họ không phải trả tiền sử dụng đất.
2. Trường hợp nhà
ở thuê, mượn đang được sử dụng cho cá nhân ở hoặc tuy đang được sử dụng làm trụ
sở làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng nhưng không thuộc
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này thì cơ quan, tổ chức phải trả lại nhà ở
đó cho bên cho thuê, bên cho mượn theo quy định của Nghị quyết này.
3. Trường hợp nhà
ở thuê, mượn đang được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng hoặc nhà ở thuê, mượn toạ lạc tại khu vực không được quy
hoạch làm nhà ở thì việc trả lại nhà ở thực hiện theo các phương thức quy định
tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này.
Tuỳ từng trường hợp
và điều kiện cụ thể của địa phương, việc trả lại nhà ở có thể thực hiện bằng một
trong ba phương thức quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này hoặc kết
hợp các phương thức nhưng tổng giá trị nhà ở, đất ở tính bằng tiền phải trả cho
bên cho thuê, bên cho mượn không được lớn hơn giá trị nhà ở, đất ở tính bằng tiền
cho thuê, cho mượn. Trường hợp có sự chênh lệch giá trị giữa nhà ở, đất ở cho
thuê, cho mượn với nhà ở, đất ở trả lại thì các bên phải thanh toán cho nhau phần
chênh lệch đó bằng tiền.
Điều 31. Trả nhà ở
đang thuê, mượn cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở
Trường hợp cơ
quan, tổ chức trả nhà ở đang thuê, mượn cho bên cho thuê, bên cho mượn mà nhà ở
cho thuê, cho mượn đã được sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây
dựng nhà ở mới thì giải quyết như sau:
1. Khi nhận lại
nhà ở, nếu bên cho thuê, bên cho mượn phải thanh toán kinh phí sửa chữa, cải tạo,
nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới thì:
a) Nếu nguồn kinh
phí của cá nhân thì bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở phải thanh toán cho cá
nhân đó;
b) Nếu nguồn kinh
phí của cơ quan, tổ chức thì bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở phải thanh toán
cho cơ quan, tổ chức đó;
2. Khi trả lại
nhà ở, nếu nhà ở thuê, mượn đang được sử dụng cho cá nhân ở và cá nhân đó được
xác lập quyền sở hữu đối với phần diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới thì họ
phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn giá trị quyền sử dụng đất ở
tương ứng với diện tích đất ở mà họ có quyền sử dụng theo quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 33 của Nghị quyết này.
Điều 32. Cơ quan,
tổ chức trả bằng nhà ở khác cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở
Trường hợp cơ
quan, tổ chức trả bằng nhà ở khác cho bên cho thuê, bên cho mượn thì giá trị
nhà ở, đất ở trả lại không được vượt quá giá trị nhà ở, đất ở đang thuê, đang
mượn.
Trong trường hợp
có chênh lệch giá trị giữa nhà ở, đất ở cho thuê, cho mượn với nhà ở, đất ở trả
lại thì các bên phải thanh toán cho nhau phần chênh lệch bằng tiền theo quy định
tại Điều 33 của Nghị quyết này.
Điều 33. Cơ quan,
tổ chức trả bằng tiền cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở
1. Trong trường hợp
cơ quan, tổ chức trả bằng tiền cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở thì số tiền
mà cơ quan, tổ chức phải trả không được vượt quá giá trị nhà ở, đất ở đang
thuê, đang mượn.
2. Việc xác định
giá trị nhà ở, quyền sử dụng đất ở do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận
được thì được thực hiện như sau:
a) Giá trị nhà ở
do tổ chức thẩm định giá có thẩm quyền xác định căn cứ vào giá trị còn lại của
nhà ở;
b) Giá trị quyền
sử dụng đất ở được xác định trên cơ sở bảng giá các loại đất do Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá của Chính phủ.
Điều 34. Nhà nước
giao đất ở cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở mà họ không phải trả tiền sử dụng
đất
1. Trường hợp Nhà
nước giao đất ở cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở để tạo lập nhà ở mới thì
các khoản tiền phải nộp để nhận đất ở do cơ quan, tổ chức thuê, mượn nhà ở chi
trả trực tiếp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về
đất đai.
2. Trường hợp Nhà
nước giao đất ở mà có chênh lệch giá trị giữa nhà ở, đất ở cho thuê, cho mượn với
đất ở trả lại thì các bên phải thanh toán cho nhau phần chênh lệch đó bằng tiền
theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 33 của Nghị quyết này.
Điều 35. Nguồn
kinh phí để thực hiện việc trả lại nhà ở
1. Ngân sách
trung ương thanh toán đối với trường hợp trả lại nhà ở do cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội của trung ương quản lý, sử dụng hoặc
nhà ở đang được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng do cơ quan, tổ chức của trung ương quản lý, sử dụng.
Ngân sách trung
ương hỗ trợ thanh toán đối với trường hợp trả lại nhà ở do tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của trung ương
quản lý, sử dụng theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
2. Ngân sách địa
phương thanh toán đối với trường hợp trả lại nhà ở do cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội của địa phương quản lý, sử dụng hoặc nhà ở
đang được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng do cơ quan, tổ chức của địa phương quản lý, sử dụng.
Ngân sách địa
phương hỗ trợ thanh toán đối với trường hợp trả lại nhà ở do tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của địa
phương quản lý, sử dụng theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
3. Nguồn tài
chính để thanh toán đối với trường hợp trả lại nhà ở của tổ chức không thuộc diện
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này do tổ chức đó tự trả.