Theo
Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21/09/2011
Trong thời gian vừa qua
một số Tòa án nhân dân địa phương đề nghị hướng dẫn “Giấy tờ có giá” và các yêu
cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản do người khác đang chiếm giữ
(Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; Giấy
đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) có phải là các yêu cầu trả lại
“Giấy tờ có giá” hay không. Nếu có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa
án có thụ lý giải quyết không. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
như sau:
1. Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo quy định
tại điểm 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 thì
giấy tờ có giá là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành
giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định,
điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Căn cứ vào các quy định của pháp luật
hiện hành, thì giấy tờ có giá bao gồm:
a) Hối phiếu đòi nợ, hối
phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy định tại Điều 1 của
Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005;
b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu
được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;
c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm
phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật quản
lý nợ công năm 2009;
d) Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương
lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các
loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1
Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm
2010);
đ) Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị
định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu
doanh nghiệp”…
2. Theo các quy định trên đây thì các giấy chứng nhận quyền sở hữu
tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở,
Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) không phải là “giấy tờ có
giá” quy định tại Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005; do đó, nếu có yêu
cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án
không thụ lý giải quyết.
3. Trường hợp người khởi
kiện chỉ đòi lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản do người khác đang chiếm
giữ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở,
Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) thì Tòa án giải quyết như
sau:
a) Trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Tòa án áp dụng điểm e
khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự trả lại đơn kiện cho người khởi
kiện. Trong văn bản trả lại đơn khởi kiện, Tòa án phải ghi rõ lý do trả lại đơn
khởi kiện là yêu cầu khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
b) Trường hợp đã thụ lý vụ án thì Tòa án căn cứ vào khoản 2
Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý; trả lại đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo cho đương sự; căn cứ khoản 3 Điều 193 Bộ luật tố tụng
dân sự ra quyết định trả lại tiền tạm ứng án phí cho đương sự.
c) Khi trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
nêu trên, Tòa án phải hướng dẫn cho người khởi kiện có thể yêu cầu cơ quan chức
năng giải quyết theo thẩm quyền buộc người chiếm giữ bất hợp pháp giấy tờ nêu
trên phải trả lại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ
đó. Trong trường hợp giấy tờ bị mất thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp
đối với loại giấy tờ nêu trên có quyền đề nghị cơ quan chức năng có thẩm quyền
cấp lại giấy tờ bị mất theo quy định của pháp luật (ví dụ: yêu cầu cấp lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở bị mất theo quy định
tại Điều 24 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ
“về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất”). Bên có lỗi trong việc làm mất giấy tờ phải chịu toàn bộ chi
phí, lệ phí trong việc cấp lại giấy tờ mới.
Tòa án nhân dân tối cao
yêu cầu các Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau khi
nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện.
Công
văn 02/TANDTC PC 2021
2. Theo Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21-9-2011 của Tòa án nhân dân tối cao về thẩm
quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản thì
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá, nếu có yêu cầu
Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không
thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật
Tố tụng dân sự thì “Tòa án không được từ chối giải
quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng”. Vậy, Tòa án có được
thụ lý giải quyết các trường hợp này không?
Khoản 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm
2010 quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả
nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có
giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện
khác”. Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định giấy tờ có giá
là: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc.
Khoản 16 Điều 3 của Luật Đất đai năm 2013 quy định: "Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Mục
1 Phần I Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp
một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự hướng dẫn: “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính; nếu thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm
2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”. Theo đó, Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính, không phải là “bằng
chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ” cho nên không phải là giấy tờ có
giá. Do vậy, hướng dẫn tại Công văn số 141/TANDTC-KHXX xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải
là giấy tờ có giá vẫn phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015 và các pháp luật khác
đang có hiệu lực.
Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Chủ
sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải
trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Như vậy, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chấm dứt hành vi cản trở thực hiện
quyền của người sử dụng đất thì Tòa án nhân dân sẽ thụ lý giải quyết theo quy
định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.