Tranh chấp Mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở xác lập
trước ngày 01/07/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.
Nghị quyết
1037/2006/NQ-UBTVQH11
MƯỢN NHÀ Ở, Ở NHỜ
NHÀ Ở
Điều 8. Hợp đồng
mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở
Các trường hợp
sau đây được coi là hợp đồng mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở:
1. Có hợp đồng bằng
văn bản được các bên cùng ký;
2. Người đang ở tại
nhà ở đó không chứng minh được việc họ ở tại nhà ở đó là theo quan hệ mua bán,
thuê, đổi, tặng cho, thừa kế nhà ở, uỷ quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá
nhân;
3. Chủ sở hữu nhà
ở, người thừa kế nhà ở hoặc người được chủ sở hữu nhà ở uỷ quyền chứng minh được
họ cho mượn, cho ở nhờ nhà ở đó.
Điều 9. Bên cho
mượn, bên cho ở nhờ nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài; bên mượn, bên
ở nhờ nhà ở thường trú tại Việt Nam
1. Trường hợp thời
hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có
hiệu lực thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở, trừ trường hợp
có thoả thuận khác nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ
nhà ở biết trước ít nhất sáu tháng.
2. Trường hợp đến
ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp
đồng vẫn còn thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở kể từ
ngày hết thời hạn cho mượn, cho ở nhờ, trừ trường hợp có thoả thuận khác nhưng
phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất
sáu tháng.
3. Trường hợp thời
hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở không được xác định trong hợp đồng thì bên cho mượn,
bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở, trừ trường hợp có thoả thuận khác nhưng
phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất
sáu tháng; trong trường hợp bên mượn, bên ở nhờ nhà ở không có chỗ ở khác hoặc
không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác thì các bên thoả thuận việc tiếp tục cho
mượn, cho ở nhờ nhà ở; nếu thoả thuận được thì các bên phải ký kết hợp đồng mượn
nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005; nếu không thoả thuận được thì
bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở nhưng phải thông báo bằng
văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất hai mươi bốn tháng.
Điều 10. Bên cho
mượn, bên cho ở nhờ nhà ở thường trú tại Việt Nam, bên mượn, bên ở nhờ nhà ở là
người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Trường hợp bên
cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở thường trú tại Việt Nam, bên mượn, bên ở nhờ nhà ở
là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng nhà ở đó đang do người khác thường
trú tại Việt Nam sử dụng thì hợp đồng mượn, ở nhờ nhà ở giữa bên cho mượn, bên
cho ở nhờ nhà ở và bên mượn, bên ở nhờ nhà ở chấm dứt; bên cho mượn, bên cho ở
nhờ nhà ở và người đang sử dụng nhà ở có thể thoả thuận việc tiếp tục cho mượn
nhà ở, cho ở nhờ nhà ở; nếu thoả thuận được thì các bên phải ký kết hợp đồng mượn
nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005; nếu không thoả thuận được thì
bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở nhưng phải thông báo bằng
văn bản cho người đang sử dụng nhà ở biết trước ít nhất mười hai tháng.
Điều 11. Bên cho
mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và bên mượn, bên ở nhờ nhà ở đều là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài
Trường hợp bên
cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và bên mượn, bên ở nhờ nhà ở đều định cư ở nước
ngoài nhưng nhà ở đó đang do người khác thường trú tại Việt Nam sử dụng thì hợp
đồng giữa bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và bên mượn, bên ở nhờ nhà ở chấm dứt.
Quan hệ hợp đồng giữa chủ sở hữu là bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và người
đang sử dụng nhà ở đó được thực hiện theo quy định tại Điều 10 của Nghị quyết
này.