Theo Công văn 212/TANDTC-PC 2019
2. Trường hợp do tình thế khẩn cấp, người khởi kiện nộp đơn khởi kiện và
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào 04 giờ 30 phút chiều ngày thứ
sáu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 111 và khoản 3 Điều
133 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án có
thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời vào ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày
nghỉ lễ hay không?
Khoản 2 Điều 111 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trong trường hợp do tình thế khẩn
cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy
ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ
luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó”.
Khoản 3 Điều 133 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
“Đối với trường hợp yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 111 của Bộ luật này
thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo,
Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu.
Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải
xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp
nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho
người yêu cầu biết”.
Theo
quy định tại khoản 3 Điều 133 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì
thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là 48 giờ. Do thời
hạn tính bằng giờ nên thời điểm kết thúc thời hạn cũng tính bằng giờ, không phụ
thuộc thời điểm kết thúc thời hạn đó vào ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ.
Vì vậy, nếu Tòa án nhận đơn và yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
vào 04 giờ 30 phút chiều ngày thứ sáu thì Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm
phán để xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đảm bảo đúng thời hạn
48 giờ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
AD BPKCTT trong thời gian tạm đình chỉ: Công văn 212/TANDTC-PC 2019
3.
Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà một trong các bên đương sự có
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án có được xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không?
Khoản 1 Điều 111 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
“Trong quá trình giải quyết
vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức,
cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu
cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn
cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu
cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng
cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể
khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án”.
Khoản 4 Điều 215 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
“Trong thời gian tạm đình chỉ
giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách
nhiệm về việc giải quyết vụ án.
Sau khi có quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án quy định tại khoản 1 Điều 214 của Bộ luật
này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc
cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm khắc phục trong thời gian ngắn nhất
những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết”.
Việc
tạm đình chỉ là tạm ngừng giải quyết vụ án trong một thời gian nhất định; trong
thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, nếu một trong các bên đương sự có yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì vẫn là “trong quá trình giải quyết
vụ án” theo quy định tại Điều 111 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do vậy, căn cứ các quy định nêu trên, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
có trách nhiệm xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị hủy thì QĐ ADBPKCTT không
đương nhiên bị hủy: Theo Công văn 212/TANDTC-PC 2019
6. Trong vụ án có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
sau đó bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm thì
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có đương nhiên bị hủy không?
Trường hợp Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị hủy thì khi
thụ lý lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giải quyết như thế nào?
Điều 112 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau:
“1. Trước khi mở phiên tòa, việc
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán xem xét,
quyết định.
2. Tại phiên tòa, việc áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử xem xét, quyết
định”.
Khoản 1 và khoản 3 Điều 138 của
Bộ luật này quy định:
“1. Tòa án ra ngay quyết định hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Người yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị hủy bỏ;
b) Người phải thi hành quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác
thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu;
c) Nghĩa vụ dân sự của bên có
nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của Bộ luật dân sự;
d) Việc giải quyết vụ án được
đình chỉ theo quy định của Bộ luật này;
đ) Quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời không đúng theo quy định của Bộ luật này;
e) Căn cứ của việc áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời không còn;
g) Vụ việc đã được giải quyết
bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
h) Các trường hợp Tòa án trả lại
đơn khởi kiện theo quy định của Bộ luật này.…
3. Thủ tục ra quyết định hủy bỏ
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo quy định tại Điều
133 của Bộ luật này. Trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật thì việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời do một Thẩm phán được Chánh án của Tòa án đã ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời phân công giải quyết”.
Căn cứ các quy định nên trên thì
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thể hiện ở một quyết định của Tòa
án hoặc ghi nhận trong bản án và được thực hiện theo trình tự, thủ tục riêng
biệt; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay
và không bị kháng cáo, kháng nghị. Do đó, việc bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị hủy
thì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đương nhiên bị hủy.
Trường
hợp bản án bị hủy, giao hồ sơ cho Tòa án cấp có thẩm quyền giải quyết lại vụ án
thì việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện
theo quy định tại Chương VIII, từ Điều 111 đến Điều 142 của Bộ luật Tố tụng dân sự.