1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời.
Khoản 1 Điều 3
Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP
a) “Thiệt hại thực
tế” là thiệt hại đã xảy ra theo hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết
này, được tính thành tiền tại thời điểm giải quyết bồi thường. Thiệt hại phát
sinh sau thời điểm giải quyết bồi thường lần đầu được xác định tại thời điểm giải
quyết bồi thường lần tiếp theo nếu có yêu cầu của người bị thiệt hại.
Ví dụ: A gây
thương tích cho B mà B phải điều trị dài ngày. Tại thời điểm Tòa án giải quyết
bồi thường thì tổng thiệt hại thực tế là X đồng, bao gồm: chi phí điều trị, mức
thu nhập bị mất hoặc giảm sút; chi phí cho người chăm sóc, tổn thất tinh thần. Sau
đó, B vẫn phải tiếp tục điều trị thì các chi phí phát sinh sau thời điểm Tòa án
giải quyết sẽ được giải quyết trong vụ án khác nếu có yêu cầu của người bị thiệt
hại.
b) “Thiệt hại phải
được bồi thường toàn bộ” là tất cả các thiệt hại thực tế xảy ra đều phải được bồi
thường.
c) “Thiệt hại phải
được bồi thường kịp thời” là thiệt hại phải được bồi thường nhanh chóng nhằm
ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại.
Trong quá trình
giải quyết vụ án, Tòa án có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để giải quyết yêu cầu cấp bách
của người bị thiệt hại (như buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; buộc thực hiện trước một phần
nghĩa vụ cấp dưỡng...).
d) Để đảm bảo việc
bồi thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời, việc giải quyết vấn đề bồi thường
trong vụ án hình sự, vụ án hành chính phải được tiến hành cùng với việc giải
quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính.
Trường hợp vụ án
hình sự, vụ án hành chính có nội dung giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại
nhưng chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án
hình sự, vụ án hành chính thì vấn đề bồi thường có thể tách ra để giải quyết
theo thủ tục tố tụng dân sự.
đ) Người yêu cầu
bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức
yêu cầu bồi thường và các tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình là có
căn cứ.
Trường hợp người
yêu cầu bồi thường thiệt hại không thể tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ
thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
2. Người chịu trách nhiệm Bồi thường thiệt
hại được giảm mức Bồi thường Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP
2. Về khoản 2 Điều
585 của Bộ luật Dân sự
Thiệt hại quá lớn
so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường là trường hợp có
căn cứ chứng minh rằng nếu Tòa án tuyên buộc bồi thường toàn bộ thiệt hại thì
không có điều kiện thi hành án.
Ví dụ: Một người
vô ý làm cháy nhà người khác gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng. Người gây thiệt
hại có tổng tài sản là 100.000.000 đồng, thu nhập trung bình hàng tháng là
2.000.000 đồng. Mức thiệt hại này là quá lớn so với khả năng kinh tế của người
gây thiệt hại.
3. Thay đổi mức Bồi thường thiệt hại khi
không còn phù hợp với thực tế.
Khoản 3 Điều 3
Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP
3. Về khoản 3 Điều
585 của Bộ luật Dân sự
Mức bồi thường
thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình
hình kinh tế - xã hội; sự biến động về giá cả; sự thay đổi về tình trạng thương
tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại; sự thay đổi về khả năng kinh tế
của người có trách nhiệm bồi thường mà mức bồi thường không còn phù hợp với sự
thay đổi đó.
Bên bị thiệt hại
hoặc bên gây thiệt hại yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại phải có đơn
yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại. Kèm theo đơn là các tài liệu, chứng
cứ làm căn cứ cho việc yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại.
4. Bồi thường thiệt hại tương ứng theo lỗi
gây thiệt hại.
Khoản 4 Điều 3
Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP
4. Về khoản 4 Điều
585 của Bộ luật Dân sự
Bên bị thiệt hại
có một phần lỗi đối với thiệt hại xảy ra thì không được bồi thường thiệt hại
tương ứng với phần lỗi đó.
Ví dụ: A và B
cùng lái ô tô tham gia giao thông, xảy ra tai nạn do đâm va vào nhau dẫn đến A
bị thiệt hại 100.000.000 đồng. Cơ quan có thẩm quyền xác định A và B cùng có lỗi
với mức độ lỗi của mỗi người là 50%. Trường hợp này, B phải bồi thường
50.000.000 đồng cho A (50% thiệt hại).
5. Không được Bồi thường thiệt hại khi
không áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Khoản 5 Điều 3
Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP
5. Về khoản 5 Điều
585 của Bộ luật Dân sự
“Bên có quyền, lợi
ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các
biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình” là
trường hợp bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm biết, nhìn thấy trước việc nếu
không áp dụng biện pháp ngăn chặn thì thiệt hại sẽ xảy ra và có đủ điều kiện để
áp dụng biện pháp ngăn chặn, hạn chế được thiệt hại xảy ra nhưng đã để mặc thiệt
hại xảy ra thì bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Nhà của A
bị cháy, B đỗ xe ô tô gần nhà A, B biết được nếu không di dời thì khả năng đám
cháy sẽ lan sang làm cháy ô tô của B và B có điều kiện để di dời nhưng B đã bỏ
mặc dẫn đến xe ô tô bị cháy. Trường hợp này, B không được bồi thường thiệt hại.